Cuộc Đời của Mẹ Maria

                  Qua Thị Kiến của

      Thánh Nữ Anne Catherine Emmerich

         

     Phụ chú: MeMeDu@dk ngày 05 tháng 05 năm 2006 t́nh cờ mua được một cuốn sách (anh ngữ) tại làng Mễ Du, dịch lại từ một cuốn sách bằng tiếng Đức của Clemens Brentano. Người đă trực tiếp tiếp xúc và ghi lại những thị kiến của Thánh Nữ Anne Katherine Emmerich từ ngày 27 tháng 06 năm 1819. Thánh Nữ Anne Katherine (sinh ngày 08 tháng 09 năm 1774 và chết ngày 09 thàng 02 năm 1824) đă được Thiên Chúa cho thị kiến từ năm 1812 đến năm 1824. Từ những thị kiến của Thánh Nữ người ta chia ra làm 4 cuốn sách:

1.      “The Life of Christ and Biblical Revelations of Anna Catherine Emmerich ” (Cuộc Đời của Chúa Giêsu và những thị kiến của Thánh Nữ    Anna Catherine Emmerich về Thánh sử dày 2.088 trang): viết về Cuộc Đời của Chúa Giêsu và thân sinh của Ngài

2.      “The Dolorous Passion of Our Lord Jesus Christ” (Cuộc Thường Khó của Chúa Giêsu  dày 320 trang): viết về Cuộc Thương Khó  và cái chết của  Chúa Giêsu Ghi chú: Cuốn phim Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu (“The Passion”) do đạo diễn & tài tử Mel Gibson tŕnh chiếu mùa Phục Sinh năm 2005 phần lớn dựa vào cuốn sách nầy (và Thánh Kinh)

3.      “The Life of the Blessed Virgin Mary” (Cuộc Đời của Đức Trinh Nữ Maria dày 383 trang): viết về Cuộc Đời của Đức Trinh Nữ Maria và ḍng tộc của Mẹ cho đến thời Chúa Giêsu, cái chết của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria Ghi chú: MeMeDù@dk đă mua được cuốn này. Nhờ cuốn sách nầy mà những sử gia Công Giáo đă t́m ra được nhà của Mẹ và thánh Tông đồ Gioan ở thành phố Efesô Thổ Nhị Kỳ (xin xem bài viềt về sự kiện này http://www.memedu.dk/baivietchiase/mevagioan.htm )

4.      “The Life of Anna Catharina Emmerich” (Cuộc Đời của Thánh Nữ Anna Catherine Emmerich dày 1.297 trang): viết về Cuộc Đời của Thánh Nữ Anna Catherine Emmerich, những thị kiến về quá khứ, hiện tại (thời của Thánh Nữ) và tương lai, đời sống các vị Thánh và nhiều giai đoạn trong Thánh sử

 Trước khi về Nước Chúa thánh Nữ Anna Catherine Emmerich nói:”What the Pilgrim (ghi chú: Chị muốn nói: tác giả Clemens Brentano) gleans, he will bear away, far, far away, for there is no disposition to make use of it here; but it will bring forth fruit in other lands, whence its effects will return and be felt even here” (Tạm dịch:”Những ǵ mà người bạn Hành hương [Anna C. muốn ám chỉ Clemens Brentano, người đă trực tiếp phỏng vấn và ghi lại những Thị Kiến của Thánh nữ Anna Catharina Emmerich] ghi lại, anh ta sẽ gặt hái nhiều, gặt hái nhiều , v́  không có một khuôn mẫu nào được dùng để viết lại những sự kiện nầy; nhưng  công việc của anh sẽ gặt hái được nhiều hạt quả trong nước trời, từ đó những thành quả của nó sẽ được thành tụ và liên kết những sự kiện ở đây”)

MeMeDu@dk sẽ cố gắng đọc và lần lượt đưa lên trang web cho các bạn đọc.
Trong sách “Cuộc Đời của Đức Trinh Nữ Maria” Thánh Nữ Anna Catherine Emmerich diẽn tả rất rỏ về Ḍng tộc Mẹ Maria, Mẹ được sinh ra, thời niên thiếu của Mẹ, giáo dục, khi sinh Chúa Giêsu, cuộc sống Thánh Gia và những ngày sau cùng của Mẹ.
V́ sách rầt dày mà trang web có hạn, do đ̣ MeMeDu@dk chỉ tóm tắt những phần quan trọng.

đồ lịch sử ḍng tộc của Mẹ Maria (xin bấm vào link dưới đây: http://memedu.dk/sudiepmemaria/AnneCatherine/sododongtocMeMaria.pdf

 Phần 1: Ḍng tộc của Mẹ Maria cho đến khi Mẹ sinh ra

Ḍng tộc của Thánh nữ Anne (Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria) thuộc ḍng Essenes ở Mara thuộc vùng núi Mount Horeb (trong Thánh kinh gọi là Mount Sinai, nơi đây trồng rất nhiều bông hoa và trái cây, và cũng là nơi có hang của Tiên Tri Elias link: http://www.halexandria.org/dward482.htm

). Ḍng tộc Essenes (tên thay đổi 3 lần: lúc đầu là Eskarenes, rồi Chasidaees, sau cùng là Essenes). Những người thuộc ḍng tộc nầy viếng thăm Đền Thờ Giêrusalêm 3 lần một năm. Họ có khu vực riêng biệt của họ trong Thánh địa và Đền Thờ Giêrusalêm v́ người Jews (do thái) không thích họ. Họ rất đoàn kết ví dụ nếu trong đoàn có ai bệnh, họ phải chửa hết bệnh cho người đó rồi  mới tiếp tục hành hương Đền Thánh. Những ai chưa có gia đ́nh th́ ở chung trong một cộng đồng riêng và được coi là nơi “trong sạch” nhất vùng. Những người nầy thường mặc áo dài trắng. Lương thực chính của họ là trái cây do họ tự trồng.

Tiên tri Archos đă cai quyền vùng nầy 90 năm. AC (Thánh Nữ Anna Catherine) đă nh́n thấy Bà Ngoại (tên Emorun) của TN (Thánh Nữ) Anne hỏi ư kiến Tiên Tri về hôn nhân của bà. Sau khi cầu nguyện trong hang của Tiên Tri Elias,Thiên Thần đă chỉ dẫn Tiên tri Archos là phải để cho Emorun lấy Stolanus làm chồng. Emorun sinh được 3 người con gái (Phụ chú: ḍng tộc của Đức Mẹ thường sinh con gái): Ismeria, Emerentia và Enue. Chị Imerentia lấy Aphras (một Levite) và sinh ra 2 người con gái: Elisabeth, là mẹ của Thánh Gioan Baotixita và chị Rhode (AC đă nh́n thấy chị nầy kế bên Mẹ khi Đức Mẹ qua đời). C̣n chị Enue th́ khi Đức Mẹ sinh ra th́ chị vẫn sống độc thân. Ismeria lấy Eliud và sinh sống theo truyền thống ḍng tộc Essenes tại Nazareth. Ismeria sinh ra một người con gái đặt tên là Sobe. Nhưng v́ Sobe không có dấu hiệu thiêng liêng nào của Thiên Chúa, 2 vợ chồng rất buồn và t́m đến Tiên tri Archos để xin giúp đở. Tiên tri khuyên 2 vợ chồng phải tự cầu nguyện và thánh hoá gia đ́nh, ông sẽ giúp thêm lời cầu nguyện.18 năm sau một đêm Ismeria thị kiến thấy Thiên Thần hiện ra và ghi trên tường nhà một bức thư. Sau khi thức dậỳ 2 vợ chồng đă đọc bức thư nầy trên tường. Sau đó vài tháng Ismeria đă sinh ra TN Anne với nhiều dấu chỉ của Thiên Chúa. Khi được 5 tuổi (cũng như Đức Mẹ)  TN Anne đi học trong Đền Thờ Giêrusalêm cho đến 17 tuổi . Một năm sau, mẹ của TN Anne qua đời.Trước khi qua đời bà dặn ḍ TN Anne là phải lấy chồng và phải hỏi ư kiến của Tiên Tri núi Mount Horeb. Sobe (chị TN Anne) lấy Salome (sau nầy con gái của Sobe  lấy Zebedee và sinh ra 2 người con trai, đó là Thánh Tông Đồ Giacôbê và Thánh sử Gioan Tông Đồ). TN Anne sinh ra tại Bethlehem, sau đó cha mẹ chị dọn về Sephoris (cách Nazareth 4 giờ đựng bộ). Tại đây họ có nhà và ruộng vườn. Ngoài ra họ c̣n có một miếng đất ở thung lủng Zabulon (cách Sephoris nữa giờ, Nazareth 3 giờ).Trong mùa gặt hái Cha của TN Anne thường mang gia đ́nh đến thung lủng chơi. Khi vợ (Ismeria) chết ông dọn nhà về Zabulon. Tại đây họ đă gặp cha mẹ của Joachim. Cha của  Joachim tên Mathat và là anh em cùng mẹ khác cha với Jacob (Cha của Thánh Cả Giuse). Chị AC nh́n thấy nhà của TN Anna giàu có, nhưng họ thường chia của cải cho người nghèo rất nhiều. Đặc biệt TN Anna không đẹp bằng Mẹ Maria nhưng tấm ḷng nhân từ của chị rất bao la. Chị đă từ chối bao nhiêu thanh niên, nhưng rồi sau cùng lấy Joachim sau khi hỏi ư kiến của Tiên tri ḍng tộc Essenses.  

 

Thánh Anna và Thánh Joachim

Joachim dáng người nhỏ, nghèo, không khéo tay (như Thánh cả Giuse), là một người đàn ông thánh thiện và đạo đức. Joachim có liên hệ ḍng tộc với Thánh cả Giuse như sau: Ông nội của Thánh cả Giuse tên Mathan là thuộc ḍng David (ḍng tộc Solomon) có 2 con trai: Jacob và Joses. Jacob là cha của Thánh cả Giuse. Khi Mathan qua đời, vợ ông lấy Levi (cũng thuộc ḍng David nhưng bên ḍng tộc Nathan). Sau đó họ có được một người con trai tên Mathat. Mathat là cha của Joachim (hay c̣n gọi là Heli).   

Anna lấy Joachim lúc đó mới có 19 tuổi. Hai vợ chồng sống thầm lặng với cha Anna (Eliud) trong nhà của ông. AC ít thấy họ cười đùa với nhau, nhưng họ không buồn. Mặc dù hai vợ chồng c̣n quá trẻ nhưng sống như hai vợ chồng “già”. Thựng cho tiền cho người nghèo rất nhiều. Tại ngôi nhà nầy Anna đă sinh ra người con gái đầu ḷng tên Maria Heli mũm mĩm, dễ thương, khoẻ mạnh. Mặc dù rất vui mừng nhưng 2 vợ chồng vẫn không hài ḷng  Maria không mang “hạt giống” Thánh như họ cầu nguyện. AC nh́n thấy 2 vợ chồng cầu nguyện cũng như dâng lễ vật trong Đền Thờ Giêrusalêm nhiều hơn. Khi Maria Heli được khoảng 7 tuổi hai vợ chồng muốn dọn đi nơi khác sinh sống. AC nh́n thầy cha mẹ Anna gom góp tài sản để chia cho Anna, đồng thời t́m nhà mới cho hai vợ chồng.

Gia đ́nh Anna & Joachim dọn về ở trong một khu vực nằm trên một ngọn đồi giữa hai thung lũng, 1 bên là làng Nazaret (cách khoảng 2 cây số), 1 bên là làng Zabulon. Một ngôi nhà lớn khang trang chung quanh được bao bọc bởi một vườn bông và một rừng cây, khi hai vợ chồng dọn vào nhà th́ mọi vật dụng đă đưọc mua và trang hoàng đầy đủ trong nhà (cha Anna đă sắm mua trước tất cả). V́ ngôi nhà mới rộng lớn Anna và Joachim ở riêng trong pḥng của ḿnh, ngay cả lúc cầu nguyện . AC thường thấy Joachim quỳ gối ch́m đắm trong Kinh nguyện cùng với Thiên Chúa.

19 năm sau khi sinh Maria Heli hai vợ chồng v́ sống chay tịnh và phó thác cho Thiên Chúa vẫn không có thêm con. AC thấy: Hàng xóm bắt đầu nói xấu là Anna không thể có con được(“hiếm muộn”), Maria Heli là đứa con nuôi do cha mẹ Anna xin,…Mổi lần nghe như vậy hai vợ chồng rất buồn. Mặc dầu vậy Anna vẫn giữ vững đức tin cùng với Joachim phó thác trong bàn tay của Thiên Chúa. Sự xấu hổ v́ không có con đă ám ảnh Anna rất nhiều. Joachim gầy xúc hẳn đi (lúc trước ông khoẻ mạnh). Anna dáng cũng không cao, người thon gọn cũng ốm đi nhiều. Hai vợ chồng vẫn tiếp tục dâng lễ vật trong Đền Thờ Giêrusalem và giúp người nghèo. Một hôm Anna chuẩn bị rất nhiều lễ vật để Joachim dâng lên Đền Thờ. Nhưng khi Joachim đến cửa Đến Thờ th́ vị giáo sỉ gác cửa Đền Thờ không cho ông vào v́ lư do ông không có con, có nghĩa là v́ ông có tội nên Thiên Chúa không cho ông có con.

Quá buồn râu và xấu hổ Joachim không về nhà mà bỏ trốn trên núi Mount Hermon 5 tháng. Anna không thấy chồng về và nghe người ta kể lại về việc Joachim bị đuổi ra Đền Thờ, chị buồn rầu chán nản. Chờ hoài không thấy chồng về, Anna nhờ 2 người giúp việc đưa con gái Maria Heli về ở với cha mẹ ḿnh. Sau đó chị buồn rầu trở về pḥng cầu nguyện. Trong đêm tối chị trùm khăn lên đầu, đốt đèn dầu, đi ra vườn và treo đèn lên một thân cây lớn (cây nầy giống như cây trong vườn Địa Đàn của Adam và Eva, to lớn rễ cây ḅ và phá nền nhà để vào trong nhà). Anna quỳ khóc và cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho sự hiếm muộn của ḿnh và cầu cho chồng mau trở về. Th́nh ĺnh một thiên thần hiện ra trên ngọn cây và bay xuống chị Anna. Thiên Thần báo cho Anna biết rằng:”V́   Chị có một tâm hồn thánh thiện, Thiên Chúa đă chấp nhận lời cầu của chị, ngày mai chị mang lễ vật lên Đền Thờ và chị sẽ găp chồng chị tại cổng Vàng (“Golden Gate”) của Đền Thờ. Thiên Chúa cũng đă chấp nhận lời cầu nguyện của Joachim. Ngày mai Joachim cũng sẽ mang lễ vật vào Đền Thờ. Hai vợ chồng sẽ có một đứa con và trong thời gian tới Thiên Thần sẽ cho biết là sẽ đặt tên ǵ cho đứa bé. Thiên Thần cũng đă báo tin cho Joachim biết rồi”, sau đó ngài biến mất. Chị Anna vui mừng cảm tạ ḷng Từ Bi Nhân Hậu của Thiên Chúa. Sau đó Anna trở vào nhà và thúc hối những người giúp việc chuẩn bị hành trang lễ vật để sáng mai lên đường đi Đền Thờ Giêrusalêm. AC thấy Anna nằm ngủ sau khi đọc kinh, Anna nằm nghiêng ḿnh phía bên phải xoay vào vách tuờng, Sau khi nằm ngủ được một chút th́ AC thấy có một vùng ánh sáng tiến dần đến giường Anna, ánh sáng có bóng môt người trẻ tuổi, đó là Thiên Thần của Thiên Chúa. Ngài đến và loan báo cho Anna rằng:” Chị sẽ sinh ra một đứa con Thánh”, sau đó ngài dang tay ra cho chị và ghi chữ to bằng ánh sáng trên tường “MARY”. Sau đó ngài biến mất. Sau nữa đêm Anna thức dậy vui mừng và đầy thần khí. Khi vùng ánh sáng  của Thiên Thần bao trùm Anna, AC thấy vùng trái tim Anna toả ra ánh sáng. Sau khi đọc những chữ Thiên Thần viết trên tường, Anna trở nên vui vẻ, trẻ trung rất nhiều. AC nhận biết ngay là đây là người Mẹ được Thiên Chúa chọn (AC đoán thời điểm nầy Anna khoảng 43 tuổi.

Sau 4 ngày đi bộ Anna đă đến thành Giêrusalêm. Nhờ sự hưóng dẫn của vị giáo sỉ giử cửa Đền Thờ. Anna đă gặp Joachim tại cổng Vàng Đền Thờ. Hai vợ chồng ôm nhau vui mừng. AC thấy có một vùng ánh sáng bao trùm 2 vợ chồng lúc đó. Sau đó Joachim đă vào trong Đền Thờ một ḿnh, và tại đây ông đă được Thiên Thần hiện ra và nói: Sự hiếm muộn của 2 vợ chồng không phải là không được ơn, mà ngược lại là một vinh dự, đứa con mà vợ chồng ông nhận được sẽ là “hạt quả” bất tử (“immaculate”) của Thiên Chúa. Sau đó Thiên Thần trao cho Joachim một tờ giấy chiếu sáng có ghi 3 chữ: Helia, Hanna, Miriam (có nghĩa là: Joachim, Anna, Maria).          

Sau khi viếng thăm Đền Thờ hai vợ chồng trở về Nazareth, c̣n lại bao nhiêu lương thực họ chia hết cho người nghèo…

 

Thị kiến Thiên Tín Vô Nhiễm Nguyên Tội

Gần như suốt đêm (08.12.1819) AC thị kiến thấy h́nh ảnh của những tội lổi ghê gớm của thế gian, nhưng cho đến gần sáng AC lại thấy Đền Thờ Giêrusalêm, rồi đến làng Nazareth, AC thấy ngôi nhà thờ của làng, chị kể lại: “Tôi thấy thánh nữ Anna đứng giữa Joachim và một người đàn ông (có thể là cha của Anna). Tôi nh́n thấy một vùng ánh sáng chiếu ra từ ngực của Anna, rồi từ đó tôi thấy h́nh dáng của một bào thai đang phát triển và đă tiếp nhận Thiên Tín Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Tôi lại thị kiến tiếp  17 tuần và 5 ngày sau ngày Thiên Tín Vô Nhiễm Nguyên Tội tôi thấy Anna đang nằm trên gường trong nhà của chị gần Nazareth. Bỗng nhiên xuất hiện một vùng ánh sáng chung quanh chị, có dáng một người trong vùng ánh sáng. Anna ngồi dậy trong trạng thái ngũ (ectasy) và lần đầu tiên tôi thấy hài nhi chuyển động trong bụng Anna. Giật ḿnh tỉnh dậy Anna mừng rở, choàng áo vào và chạy sang pḥng Joachim báo tin cho anh. Hai vợ chồng mừng rở ra gốc cây lớn ngoài vườn (nơi Thiên Thần đă hiện ra cho Anna) tạ ơn Thiên Chúa.

Vài ngày trước ngày sinh Anna nói với Joachim là sắp đến ngày rồi và chị báo tin cho cô em út của chị, Maraha (ở Sephoris), cho d́ của chị, Enue (ở Zabulon, Enue cũng là d́ của Elizabeth, là mẹ của Thánh Gioan Baotixita) và cho cháu của chị, Mary Salome (ở Bethsaida). Và mời ba người nầy về nhà ḿnh. AC thấy cả 3 người chuẩn bị hành trang lên đường, chị nói: Enue chuẩn bị vật dụng cho việc sinh sản; 2 người đàn bà trẻ khác cùng đi với chồng ḿnh. Một ngày trước khi sanh,  Joachim chuyển tất cả những người giúp việc đàn ông qua các khu nhà khác, chỉ có những người giúp việc đàn bà cần thiết là giử lại trong nhà. Chính ông cũng sang nhà kế bên ở. Người con gái đầu ḷng của Anna, Mary Heli (lúc nầy khoảng 19 tuổi), cũng trở về để giúp mẹ ḿnh (*Mary Heli lấy Cleophas, là Trưởng đoàn chăn cừu của Joachim, hai người có một đứa con gái, Mary Cleophas, 4 tuổi). Sau kinh nguyện Joachim chọn những lễ vật tốt nhất và sai những người giúp việc đi tạ ơn Thiên Chúa trong Đền Thờ Giêrusalêm. Tôi nh́n thấy 3 người bà con của Anna cũng đă đến nhà Anna lúc ban chiều.

Sau khi Anna nói với họ là thời điễm sắp đến, họ đứng chung lại với nhau và cùng hát: “Praise the Lord God; He has shown mercy to mercy to His people and has redeemed Israel and has fulfilled the promise which he gave to Adam in Paradise that the seed of the woman should crush the head of the serpent….Anna cầu nguyện ch́m đắm trong cơn mê, chị nhắc lại những lời tiên tri trong Thánh vịnh vè Mẹ Maria, chị nói: Hạt giống mà Thiên Chúa đă ban cho Tổ phụ Abraham đang chín mùi trong tôi. Chị nhắc lại lời húa cho việc sinh ra của Sara of Isaac và nói: Ḍng tộc của Aaron rất tốt cho tôi. Và ngay lúc đó AC nh́n thấy một luồn ánh sang làm cho căn pḥng sáng rực lên. Những người đàn bà vui mừng. Sau đó họ ăn chút bánh ḿ, trái cây, uống nước trái cây có pha balsam và đi ngũ. Anna không đi ngũ mà tiếp tục cầu nguyện. Lúc nữa đêm Anna đánh thức các chị đàn bà dậy để tiếp tục cầu nguyện cùng với chị. Anna mở cửa một tủ nhỏ gắn trong tường và lấy một cái nón chứa một sớ những vật Thánh như: Tóc của Sara (Anna rất ái mộ Sara), xương của Thánh Joseph (mà ông Mosen đă mang về từ Ai cập) , một số vật dụng của ông Tobia, ly rượu của ông Abraham khi được ơn của Thiên Thần. Anna quỳ gối trước tủ, hai bên có hai người đàn bà, người c̣n lại đứng phía sau. Anna đọc thánh vịnh về Thiên Chúa hiện ra trong bụi gai cho ông Môsen. Và rồi tôi thấy căn pḥng chan hoà ánh sáng siêu nhiên; một vùng ánh sang bao bọc lấy Anna. Những người đàn bà té nằm dưới đất. Vùng ánh sang bao bọc Anna sáng như đóm lủa trong bụi gai ông Mỏse, sáng đến nổi tôi không nh́n thấy Anna nữa. Ngọn lửa ánh sang tàn dần, th́nh ĺnh tôi thấy Anna đang bồng hái nhi Mary trong tay, trùm trong một khăn choàng của Anna, ôm sát hài nhi vào trong long chị. Anna vẫn tiếp tục đọc kinh. Rồi tôi nghe tiếng khóc của hài nhi. Anna trùm cho hài nhi một khăn lớn màu xám rồi một khăn màu đỏ. Đồm lửa ánh sang biến mất. Các bà lúc nầy đứng dậy và chạy lại thay phiên bồng hái nhi. Họ khóc trong vui mừng và cùng nhau dâng lời ca tụng Thiên Chúa. Khi Anna giơ cao hài nhi lên như một lễ vật dâng cho Thiên Chúa, th́ căn pḥng lại chan hoà ánh sang và các Thiên Thần hiện ra ca hát ”Gloria và Alleluia”.Các ngài truyền tin rằng ngày thứ 20 hài nhi sẽ được đặt tên là MARY.

Anna về pḥng nằm nghỉ. Trong khi đó các bà tắm rủa cho hài nhi, choàng khăn lại và đặt nắm kế bên Anna trong một cái nôi bằng gổ (đóng chặt vào giường của Anna).

Sau đó các bà đi báo tin cho Joachim. Ông mừng rở chạy lại giường Anna quỳ gối bồng hài nhi nước mắt chan hoà rớt trên hài nhi, và hát ca tụng, giống như Zacharias đă làm khi Gioan Baotixita sinh ra. Ông ca Thánh Vịnh tạ ơn Thiên Chúa, lời Tiên Tri đă hoàn tất, bây giờ ông chết đi cũng rất vui mừng măn nguyện. Tôi không thấy Mary Heli đến, có thể là theo luật Do Thái không cho phép có mặt khi mẹ ḿnh sanh con.

Sáng hôm sau tôi thấy những người giúp việc đàn ông, đàn bà và rất nhiều người hang xóm tụ tập chung quanh nhà Anna. Họ được vô từng nhóm và các bà đă cho họ xem hài nhi. Một số người đă có một cuộc sống tốt đẹp hơn sau khi họ viếng thăm hài nhi. Những người hàng xóm đến là v́ họ đă thấy đêm vừa qua nhà Anna sáng rực lên, vả lại sau một thời gian dài hiếm muộn giờ đây Anna có con là một món quà từ Thiên đàng.

Trong lúc hài nhi nằm trong cánh tay của người mẹ Thánh. Cùng lúc tôi thấy hài nhi đă hiện diện trên thiên đàng bên cạnh Chúa Ba Ngôi đang vui mừng không diễn tả được. Và tôi đă hiểu được sứ điệp của Mẹ Maria trong tương lai với những vui mùng và những đau buồn mà Thiên Chúa đă dành cho Mẹ.        

Lúc Mẹ chào đời (ngày 08 tháng 09) tôi thấy từ những người công chính cho đến thú vật làng Nazareth và Thánh địa Giêrusalêm ca hát vui mừng. Những người tội lổi thí lo sợ. Khi đó vị giáo sỉ già (tên Simon) chăm sóc Đền Thờ Giêrusalêm đang trên đường xuống đồi (của Đền Thờ) để thăm viếng những người bị quỷ ám (mà ông chịu trách nhiệm chăm sóc).Họ sống trong một ngôi nhà dưới chân đồi. Nhà Simon cũng gần nhà họ. Bỗng nhiên nửa đêm có tiếng la thét lớn từ căn nhà “quỷ ám”. Khi Simon chạy đến th́ thấy một người đàn ông tiếp tục kêu la và muốn chạy ra ngoài nhà. Quỷ Satan (đang nhập vào ông) la khóc và nói: “I must go out, we must all go out! A virgin has been born! There are so many angels on earth who torment us! We must now go out and nevermore enter into men” (tạm dịch: Tôi phài chạy trốn, tất cả chúng tôi phải chạy trốn! Một Đấng Trinh Nữ đă sinh ra! Có quá nhiều Thiên Thần trên trần gian và sẽ làm đau khổ chúng tôi! Giờ đây chúng tôi phải chạy trốn và sẽ không bao giờ nhập vô những người nầy) . Sau đó quỷ xuất ra khỏi người nầy. Ba ngày sau cũng c̣n có rất nhiều người thăm viếng hài nhi. Bé Mary Cleophas (con của chị của Mẹ Maria khoảng 4 tuổi) cũng thường chơi với hài nhi. Bé Mary người trón trịa, kháo khỉnh.

Ngày 22 và 23 tháng 09  tôi thấy người ta đang chuẩn bị Lể Cắt B́ cho hài nhi trong nhà của Anna. Những đồ dùng trong nhà được dọn qua một bên để cho có một chổ lớn để bàn ghế và thức ăn. Chính giữa nhà để một bàn thờ, tôi thấy 5 vị giáo sỉ từ Nazareth đang đứng trước bàn thờ với Joachim. Phía sau bàn thờ tôi thấy bà con bên Anna và Joachim, trong đó có Maraha (chị Anna), Maria Heli (chị của Mẹ Maria),… Anna ở trong pḥng của ḿnh, không tham dự lễ.

Enue (d́ của Elizabeth) bồng hài nhi ra pḥng tiệc và để trong ṿng tay của Joachim. Các vị giáo sỉ từ từ tiến ra bàn thờ và đọc kinh lớn. Hai giáo sỉ cầm vạt áo của vị giáo sỉ “chủ tế”. Joachim bước lên bàn thờ trao hài nhi cho vị giáo sỉ “chủ tế”. Vị nầy giơ hài nhi lên cao (như dâng lễ vật cho Thiên Chúa) và để hài nhi nằm trên bàn thờ. Ngài lấy một cây kéo và một cái hộp nhỏ, ngài cắt 3 chùm tóc trên đầu hài nhi (2 bên và trên đ́nh đầu) để vào hộp, rồi ngài trộn tóc với dầu oliver trong hộp. Sau đó ngài chấm vào ngủ giác: lổ tai, mắt, mủi, miệng và ngực của hài nhi. Ngài cũng ghi tên “MARY” vào một miếng da rồi để trên ngực của hài nhi.   

 

(Tạm hết phần 1)