Cuộc
Đời của Mẹ Maria
Qua Thị Kiến
của
Thánh Nữ Anne Catherine Emmerich
Phụ
chú: MeMeDu@dk ngày 05 tháng 05 năm
2006 t́nh cờ mua được một cuốn sách (anh
ngữ) tại làng Mễ Du, dịch lại từ một
cuốn sách bằng tiếng Đức của Clemens
Brentano. Người đă trực
tiếp tiếp xúc và ghi lại những thị kiến
của Thánh Nữ Anne Katherine Emmerich từ ngày 27 tháng 06
năm 1819. Thánh Nữ Anne Katherine (sinh ngày 08 tháng 09 năm
1774 và chết ngày 09 thàng 02 năm 1824) đă được
Thiên Chúa cho thị kiến từ năm 1812 đến
năm 1824. Từ những
thị kiến của Thánh Nữ người ta chia ra làm 4
cuốn sách:
1.
“The Life of Christ and
Biblical Revelations of Anna Catherine Emmerich ” (Cuộc Đời
của Chúa Giêsu và những thị kiến của Thánh
Nữ Anna Catherine Emmerich về Thánh
sử dày 2.088 trang): viết về Cuộc Đời
của Chúa Giêsu và thân sinh của Ngài
2. “The Dolorous Passion of Our Lord Jesus Christ” (Cuộc
Thường Khó của Chúa Giêsu
dày 320 trang): viết về Cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu Ghi chú: Cuốn phim
Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu (“The Passion”) do
đạo diễn & tài tử Mel Gibson tŕnh chiếu mùa
Phục Sinh năm 2005 phần lớn dựa vào cuốn
sách nầy (và Thánh Kinh)
3.
“The Life of the Blessed
Virgin Mary” (Cuộc Đời của Đức Trinh Nữ
Maria dày 383 trang): viết về Cuộc Đời của
Đức Trinh Nữ Maria và ḍng tộc của Mẹ cho
đến thời Chúa Giêsu, cái chết của Chúa Giêsu và
của Mẹ Maria Ghi chú: MeMeDù@dk
đă mua được cuốn này. Nhờ cuốn sách
nầy mà những sử gia Công Giáo đă t́m ra
được nhà của Mẹ và thánh Tông đồ Gioan
ở thành phố Efesô Thổ Nhị Kỳ (xin xem bài
viềt về sự kiện này http://www.memedu.dk/baivietchiase/mevagioan.htm
)
4.
“The Life of Anna
Catharina Emmerich” (Cuộc Đời của Thánh Nữ Anna
Catherine Emmerich dày 1.297 trang): viết về Cuộc
Đời của Thánh Nữ Anna Catherine Emmerich, những
thị kiến về quá khứ, hiện tại (thời
của Thánh Nữ) và tương lai, đời sống các
vị Thánh và nhiều giai đoạn trong Thánh sử
Trước
khi về Nước Chúa thánh Nữ Anna Catherine Emmerich nói:”What
the Pilgrim (ghi chú: Chị muốn nói: tác giả Clemens Brentano)
gleans, he will bear away, far, far away, for there is no disposition to make
use of it here; but it will bring forth fruit in other lands, whence its
effects will return and be felt even here” (Tạm dịch:”Những
ǵ mà người bạn Hành hương [Anna C. muốn ám
chỉ Clemens Brentano, người đă trực tiếp
phỏng vấn và ghi lại những Thị Kiến
của Thánh nữ Anna Catharina Emmerich] ghi lại, anh ta
sẽ gặt hái nhiều, gặt hái nhiều , v́ không có một khuôn mẫu nào được
dùng để viết lại những sự kiện
nầy; nhưng công việc
của anh sẽ gặt hái được nhiều hạt
quả trong nước trời, từ đó những thành
quả của nó sẽ được thành tụ và liên
kết những sự kiện ở đây”)
MeMeDu@dk sẽ cố
gắng đọc và lần lượt đưa lên trang
web cho các bạn đọc.
Trong sách “Cuộc Đời của Đức Trinh Nữ
Maria” Thánh Nữ Anna Catherine Emmerich diẽn tả rất
rỏ về Ḍng tộc Mẹ Maria, Mẹ được
sinh ra, thời niên thiếu của Mẹ, giáo dục, khi
sinh Chúa Giêsu, cuộc sống Thánh Gia và những ngày sau cùng
của Mẹ.
V́ sách rầt dày mà trang web có hạn, do đ̣ MeMeDu@dk chỉ
tóm tắt những phần quan trọng.
Sơ đồ lịch sử ḍng
tộc của Mẹ Maria (xin bấm vào link dưới
đây: http://memedu.dk/sudiepmemaria/AnneCatherine/sododongtocMeMaria.pdf
Phần 1: Ḍng
tộc của Mẹ Maria cho đến khi Mẹ sinh ra
Ḍng
tộc của Thánh nữ Anne (Mẹ của Đức
Trinh Nữ Maria) thuộc ḍng Essenes ở Mara thuộc vùng
núi Mount Horeb (trong Thánh kinh gọi là Mount Sinai, nơi đây trồng rất nhiều bông hoa và trái
cây, và cũng là nơi có hang của Tiên Tri Elias link: http://www.halexandria.org/dward482.htm
).
Ḍng tộc Essenes (tên thay đổi 3 lần: lúc đầu
là Eskarenes, rồi Chasidaees, sau cùng là Essenes). Những
người thuộc ḍng tộc nầy viếng thăm
Đền Thờ Giêrusalêm 3 lần một năm. Họ có khu vực riêng biệt của họ trong
Thánh địa và Đền Thờ Giêrusalêm v́ người
Jews (do thái) không thích họ. Họ rất đoàn
kết ví dụ nếu trong đoàn có ai bệnh, họ
phải chửa hết bệnh cho người đó rồi mới
tiếp tục hành hương Đền Thánh. Những ai
chưa có gia đ́nh th́ ở chung trong
một cộng đồng riêng và được coi là
nơi “trong sạch” nhất vùng. Những
người nầy thường mặc áo dài trắng.
Lương thực chính của họ là trái cây do họ
tự trồng.
Tiên tri Archos đă cai
quyền vùng nầy 90 năm. AC (Thánh Nữ
Anna Catherine) đă nh́n thấy Bà Ngoại (tên Emorun) của
TN (Thánh Nữ) Anne hỏi ư kiến Tiên Tri về hôn nhân
của bà. Sau khi cầu nguyện trong hang của Tiên
Tri Elias,Thiên Thần đă chỉ dẫn
Tiên tri Archos là phải để cho Emorun lấy Stolanus làm
chồng. Emorun sinh được 3 người con gái
(Phụ chú: ḍng tộc của Đức Mẹ
thường sinh con gái): Ismeria, Emerentia và Enue. Chị
Imerentia lấy Aphras (một Levite) và sinh ra 2 người con
gái: Elisabeth, là mẹ của Thánh Gioan Baotixita và chị Rhode
(AC đă nh́n thấy chị nầy kế bên Mẹ khi
Đức Mẹ qua đời). C̣n chị Enue th́ khi
Đức Mẹ sinh ra th́ chị vẫn sống
độc thân. Ismeria lấy Eliud và sinh sống theo truyền thống ḍng tộc Essenes
tại
Thánh Anna và Thánh Joachim
Joachim
dáng người nhỏ, nghèo, không khéo tay
(như Thánh cả Giuse), là một người đàn ông
thánh thiện và đạo đức. Joachim có liên hệ
ḍng tộc với Thánh cả Giuse như sau: Ông nội
của Thánh cả Giuse tên Mathan là thuộc ḍng David (ḍng
tộc Solomon) có 2 con trai: Jacob và Joses. Jacob là
cha của Thánh cả Giuse. Khi Mathan qua
đời, vợ ông lấy Levi (cũng thuộc ḍng David
nhưng bên ḍng tộc Nathan). Sau đó họ có
được một người con trai tên Mathat. Mathat là cha của Joachim (hay c̣n gọi là Heli).
Anna lấy Joachim lúc đó mới có 19
tuổi. Hai vợ chồng sống thầm
lặng với cha Anna (Eliud) trong nhà của ông. AC ít
thấy họ cười đùa với nhau, nhưng
họ không buồn. Mặc dù hai vợ
chồng c̣n quá trẻ nhưng sống như hai vợ
chồng “già”. Thựng cho tiền cho
người nghèo rất nhiều. Tại ngôi nhà
nầy Anna đă sinh ra người con gái đầu ḷng tên
Maria Heli mũm mĩm, dễ thương, khoẻ
mạnh. Mặc dù rất vui mừng nhưng 2 vợ
chồng vẫn không hài ḷng v́ Maria không mang “hạt
giống” Thánh như họ cầu nguyện. AC
nh́n thấy 2 vợ chồng cầu nguyện cũng
như dâng lễ vật trong Đền Thờ Giêrusalêm
nhiều hơn. Khi Maria Heli được
khoảng 7 tuổi hai vợ chồng muốn dọn đi
nơi khác sinh sống. AC nh́n thầy cha
mẹ Anna gom góp tài sản để chia cho Anna,
đồng thời t́m nhà mới cho hai vợ chồng.
Gia
đ́nh Anna & Joachim dọn về ở trong một khu
vực nằm trên một ngọn đồi giữa hai
thung lũng, 1 bên là làng Nazaret (cách khoảng 2 cây số), 1
bên là làng Zabulon. Một ngôi nhà lớn khang trang chung quanh được bao bọc bởi
một vườn bông và một rừng cây, khi hai vợ
chồng dọn vào nhà th́ mọi vật dụng đă
đưọc mua và trang hoàng đầy đủ trong nhà (cha
Anna đă sắm mua trước tất cả). V́ ngôi nhà
mới rộng lớn Anna và Joachim ở riêng trong pḥng
của ḿnh, ngay cả lúc cầu nguyện .
AC thường thấy Joachim quỳ gối
ch́m đắm trong Kinh nguyện cùng với Thiên Chúa.
19
năm sau khi sinh Maria Heli hai vợ chồng v́ sống chay
tịnh và phó thác cho Thiên Chúa vẫn không có thêm
con. AC thấy: Hàng xóm bắt đầu nói xấu là Anna
không thể có con được(“hiếm
muộn”), Maria Heli là đứa con nuôi do cha mẹ Anna xin,…Mổi
lần nghe như vậy hai vợ chồng rất
buồn. Mặc dầu vậy Anna vẫn giữ vững
đức tin cùng với Joachim phó thác trong bàn tay
của Thiên Chúa. Sự xấu hổ v́ không có con đă ám
ảnh Anna rất nhiều. Joachim gầy xúc
hẳn đi (lúc trước ông khoẻ mạnh). Anna dáng cũng không cao, người thon gọn
cũng ốm đi nhiều. Hai vợ
chồng vẫn tiếp tục dâng lễ vật trong
Đền Thờ Giêrusalem và giúp người nghèo.
Một hôm Anna chuẩn bị rất nhiều lễ
vật để Joachim dâng lên Đền Thờ. Nhưng
khi Joachim đến cửa Đến Thờ th́ vị giáo
sỉ gác cửa Đền Thờ không cho ông vào v́ lư do ông
không có con, có nghĩa là v́ ông có tội nên Thiên Chúa không cho ông
có con.
Quá buồn râu và xấu hổ Joachim không
về nhà mà bỏ trốn trên núi
Sau 4 ngày đi bộ Anna đă đến
thành Giêrusalêm. Nhờ sự hưóng dẫn của
vị giáo sỉ giử cửa Đền Thờ. Anna
đă gặp Joachim tại cổng Vàng Đền Thờ.
Hai vợ chồng ôm nhau vui mừng. AC thấy có
một vùng ánh sáng bao trùm 2 vợ chồng lúc đó. Sau
đó Joachim đă vào trong Đền Thờ một ḿnh, và
tại đây ông đă được Thiên Thần hiện
ra và nói: Sự hiếm muộn của 2 vợ chồng không
phải là không được ơn, mà ngược lại
là một vinh dự, đứa con mà vợ chồng ông
nhận được sẽ là “hạt quả” bất
tử (“immaculate”) của Thiên Chúa. Sau đó Thiên Thần trao
cho Joachim một tờ giấy chiếu sáng có ghi 3 chữ:
Helia, Hanna, Miriam (có nghĩa là: Joachim, Anna, Maria).
Sau
khi viếng thăm Đền Thờ hai vợ chồng
trở về
Thị kiến Thiên Tín Vô Nhiễm Nguyên
Tội
Gần
như suốt đêm (08.12.1819) AC thị kiến thấy
h́nh ảnh của những tội lổi ghê gớm
của thế gian, nhưng cho đến gần sáng AC
lại thấy Đền Thờ Giêrusalêm, rồi
đến làng Nazareth, AC thấy ngôi nhà thờ của làng,
chị kể lại: “Tôi thấy thánh nữ Anna
đứng giữa Joachim và một người đàn ông
(có thể là cha của Anna). Tôi nh́n thấy một vùng ánh sáng
chiếu ra từ ngực của Anna, rồi từ đó
tôi thấy h́nh dáng của một bào thai
đang phát triển và đă tiếp nhận Thiên Tín Vô
Nhiễm Nguyên Tội.
Tôi
lại thị kiến tiếp 17 tuần và 5 ngày sau ngày Thiên
Tín Vô Nhiễm Nguyên Tội tôi thấy Anna đang nằm
trên gường trong nhà của chị gần
Vài
ngày trước ngày sinh Anna nói với Joachim là sắp
đến ngày rồi và chị báo tin cho cô em út của
chị, Maraha (ở Sephoris), cho d́ của chị, Enue (ở
Zabulon, Enue cũng là d́ của Elizabeth, là mẹ của Thánh
Gioan Baotixita) và cho cháu của chị, Mary Salome (ở
Bethsaida). Và mời ba người nầy
về nhà ḿnh. AC thấy cả 3 người chuẩn
bị hành trang lên đường, chị nói:
”Enue chuẩn bị vật dụng cho
việc sinh sản; 2 người đàn bà trẻ khác cùng
đi với chồng ḿnh. Một ngày trước khi sanh, Joachim
chuyển tất cả những người giúp việc
đàn ông qua các khu nhà khác, chỉ có những người
giúp việc đàn bà cần thiết là giử lại trong
nhà. Chính ông cũng sang nhà kế bên ở. Người con
gái đầu ḷng của Anna, Mary Heli (lúc nầy khoảng
19 tuổi), cũng trở về để giúp mẹ ḿnh
(*Mary Heli lấy Cleophas, là Trưởng đoàn chăn
cừu của Joachim, hai người có một đứa
con gái, Mary Cleophas, 4 tuổi). Sau kinh nguyện
Joachim chọn những lễ vật tốt nhất và sai
những người giúp việc đi tạ ơn Thiên
Chúa trong Đền Thờ Giêrusalêm. Tôi
nh́n thấy 3 người bà con của Anna cũng đă
đến nhà Anna lúc ban chiều.
Sau khi Anna nói với họ
là thời điễm sắp đến, họ
đứng chung lại với nhau và cùng hát: “Praise the Lord
God; He has shown mercy to mercy to His people and has redeemed Israel and has
fulfilled the promise which he gave to Adam in Paradise that the seed of the
woman should crush the head of the serpent….Anna cầu nguyện ch́m
đắm trong cơn mê, chị nhắc lại những
lời tiên tri trong Thánh vịnh vè Mẹ Maria, chị nói: Hạt
giống mà Thiên Chúa đă ban cho Tổ phụ Abraham đang chín
mùi trong tôi. Chị nhắc lại lời húa cho việc sinh
ra của Sara of Isaac và nói: Ḍng tộc của Aaron rất tốt
cho tôi. Và ngay lúc đó AC nh́n thấy một luồn ánh sang
làm cho căn pḥng sáng rực lên. Những
người đàn bà vui mừng. Sau đó họ
ăn chút bánh ḿ, trái cây, uống nước trái cây có pha balsam và đi ngũ. Anna không đi ngũ mà tiếp tục cầu nguyện. Lúc nữa đêm Anna đánh thức các chị
đàn bà dậy để tiếp tục cầu nguyện
cùng với chị. Anna mở cửa một tủ nhỏ
gắn trong tường và lấy một cái nón chứa
một sớ những vật Thánh như: Tóc của Sara
(Anna rất ái mộ Sara), xương của Thánh Joseph (mà
ông Mosen đă mang về từ Ai cập) ,
một số vật dụng của ông Tobia, ly rượu
của ông Abraham khi được ơn của Thiên
Thần. Anna quỳ gối trước tủ, hai bên có hai
người đàn bà, người c̣n lại đứng
phía sau. Anna đọc thánh vịnh về Thiên
Chúa hiện ra trong bụi gai cho
Anna về pḥng
nằm nghỉ. Trong khi đó các bà
tắm rủa cho hài nhi, choàng khăn
lại và đặt nắm kế bên Anna trong một cái nôi
bằng gổ (đóng chặt vào giường của
Anna).
Sau đó các bà
đi báo tin cho Joachim. Ông
mừng rở chạy lại giường Anna quỳ
gối bồng hài nhi nước mắt chan
hoà rớt trên hài nhi, và hát ca tụng, giống như
Zacharias đă làm khi Gioan Baotixita sinh ra.
Sáng hôm sau tôi thấy
những người giúp việc đàn ông, đàn bà và
rất nhiều người hang xóm tụ tập chung quanh nhà Anna. Họ được vô
từng nhóm và các bà đă cho họ xem hài nhi.
Một số người đă có một cuộc sống
tốt đẹp hơn sau khi họ viếng thăm hài nhi. Những người hàng xóm đến là
v́ họ đă thấy đêm vừa qua nhà Anna sáng rực
lên, vả lại sau một thời gian dài hiếm muộn
giờ đây Anna có con là một món quà từ Thiên đàng.
Trong lúc hài nhi
nằm trong cánh tay của người mẹ Thánh. Cùng lúc
tôi thấy hài nhi đă hiện diện
trên thiên đàng bên cạnh Chúa Ba Ngôi đang vui mừng không
diễn tả được. Và tôi đă
hiểu được sứ điệp của Mẹ
Maria trong tương lai với những vui mùng và những
đau buồn mà Thiên Chúa đă dành cho Mẹ.
Lúc Mẹ chào
đời (ngày 08 tháng 09) tôi thấy từ những
người công chính cho đến thú vật làng
Ngày
22 và 23 tháng 09 tôi
thấy người ta đang chuẩn bị Lể
Cắt B́ cho hài nhi trong nhà của Anna. Những
đồ dùng trong nhà được dọn qua một bên
để cho có một chổ lớn để bàn ghế
và thức ăn. Chính giữa nhà
để một bàn thờ, tôi thấy 5 vị giáo sỉ
từ
Enue
(d́ của
(Tạm hết phần 1)